DẢI NGÂN HÀ, NƠI THỜI GIAN CHẢY THÀNH DÒNG

Vũ trụ bao la đang chờ ta khám phá

"RỪNG" kho báu, lá phổi xanh của thế giới

vào rừng và tìm kiếm suối nguồn tươi trẻ, kho báu trong các lẳng mộ ẩn trong nhửng cánh rừng sâu thẳm của Amazon.

SA MẠC

Đi theo dấu chân của Aladin, vào xứ sở nghìn lẻ một đêm, nơi cát và phép thuật luôn hiện hữu

BIỂN CẢ, KHO BÁU CHƯA MỞ

theo dõi blog để khám phá nhưng bí mật chưa được khám phá dưới đại đương, nơi còn bí mật hơn cà sao hỏa.

BIỂN XANH SÂU THẲM

Đáy biển luôn cuốn hút chúng ta với nhưng kì quan xinh đẹp và hùng vĩ của đại dương.

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2019

Rùa cá sấu

Rùa cá sấu (snaping turtle)


Rùa cá sấu(Macrochelys temminckii) là một trong những loài rùa nước ngọt lớn nhất thế giới. Danh pháp temminckii  được đặt tên để vinh danh nhà động vật học Hà Lan Coenraad Jacob Temminck.
Chi Macrochelys từng được cho là chỉ gồm một loài, các nghiên cứu cho thấy có ba loài riêng biệt: Macrochelys temminckiiMacrochelys suwanniensis, và Macrochelys apalachicolae
Phân bố:
Loài rùa này phân bố ở vùng Bắc Mỹ, xuất hiện nhiều ở các vùng nước miền Nam Hoa Kỳ. Chúng được tìm thấy từ miền đông của đông Texas đến Florida Panhandle, và phía bắc đến đông nam Kansas, Missouri, miền đông nam Iowa, phía tây Illinois, phía tây Kentucky, và phía tây Tennessee. Do việc buôn bán vật nuôi kỳ lạ và các yếu tố khác loài đã tới châu Á và châu Âu với một trung tâm sinh sản/nghiên cứu tìm thấy ở Nhật Bản.


Đặc điểm:
Loài rùa này có đầu to, bộ hàm cực khỏe, có gờ nhọn sắc, có thể cắn vỡ mai nhiều loài rùa khác để làm thức ăn, mai nhiều gai, cùng vẻ hung dữ, nên chúng thường được gọi là "quái thú rùa". Hình ảnh chúng gợi đến loài khủng long thời xưa. Mai của chúng có 3 hàng gai. Những hàng gai này chứa rất rất nhiều đầu dây thần kinh nhạy cảm. Có báo cáo chưa được kiểm chứng về con rùa nặng 183 kg ở Kansas năm 1937,[9] nhưng một trong những mẫu vật lớn nhất có kiểm chứng gây tranh cãi. Ở bể sinh vật cảnh Shedd Chicago là một con rùa 16 năm tuổi cân nặng 113 kg, được gửi đến bể cá cảnh bang Tennessee. Một con khác cân nặng 107 kg tại sở thú Brookfield ở ngoại ô Chicago. Chúng thường không phát triển đến kích thước lớn, trung bình con trưởng thành có mai dài khoảng 40,4 đến 80,8 cm (15,9 đến 31,8 in) với khối lượng 68 đến 80 kg (150 đến 176 lb). Con đực thường lớn hơn con cái.[10] Trong số các loài rùa nước ngọt còn sinh tồn, chỉ có các loài rùa mai mềm (ba ba) trong chi ChitraRafetus, và Pelochelys có thể vượt qua về kích thước.




Bộ Rùa

Bộ Rùa (danh pháp khoa họcTestudines) là những loài bò sát thuộc "nhóm chỏm cây" của siêu bộ Chelonia (hay Testudinata). Trong tiếng Việt, các loài thuộc bộ rùa được gọi bằng nhiều tên khác nhau như rùa, ba ba, giải, vích, đồi mồi...

cấu trúc khung xương của rùa: 





(Testudinata), phân lớp bò sát, có thân bọc trong vỏ giáp, gồm tấm giáp lưng (mu hay mai) lồi và tấm giáp bụng (yếm) phẳng, hai tấm được liên kết cứng với nhau bằng tấm hông hoặc liên kết mềm bằng màng da. Ở đa số loài rùa, tấm giáp gồm các phiến sừng ghép lại trừ rùa da, mai được phủ bằng da.
(ảnh: rùa da)

 Ở các loài rùa sống trên cạn, mai lưng lồi nhiều, tiết diện ngang tròn hoặc hình parabol, chịu được tải trọng lớn.


 Ở các  loài rùa biển (rùa da, đồi mồi,... ) và rùa nước ngọt(rùa tai đỏ, rùa cổ rắn, rùa mũi lợn, rùa cá sấu), mai có hình elip thuôn giảm được sức cản trong nước, đồng thời tấm giáp bụng cũng tiêu giảm bớt, được tách ra thành các phần, có chuyển động tương đối với nhau, tạo điều kiện hoạt động tự do của chân, đầu và đuôi. rùa không có răng; hàm có các phiến cứng nhọn. Cổ linh động, có thể tụt hẳn vào trong mai bằng cách ngoặt thẳng đứng hay nằm ngang. Chân các loài rùa nước ngọt có ngón nối với nhau bằng màng bơi. Chân rùa biển biến thành vây chèo; chân trước dài hơn chân sau. Các loài rùa mềm có khả năng hô hấp qua da (hiện tượng hiếm ở bò sát).


 Não rùa kém phát triển. Hiện có 210 loài rùa khác nhau, được chia làm 5 bộ. Đa số các loài rùa có đời sống nửa cạn nửa nước, chỉ có 43 loài rùa sống hoàn toàn trên cạn, 5 loài rùa biển chỉ lên cạn vào lúc đẻ. Mùa lạnh và mùa khô, nhiều loài rùa có thể ngủ, không ăn uống. Rùa cạn và rùa biển nói chung là các loài ăn thực vật; rùa nước ngọt chủ yếu ăn động vật (cá, lưỡng thê, động vật không xương sống); có thể nhịn ăn vài tháng liền. rùa thường ghép đôi trên cạn, con cái đẻ mỗi lần từ một đến vài trăm trứng hình cầu hoặc hình bầu dục, phần lớn có vỏ mềm. Trứng nở sau 2 - 3 tháng. Thành thục sinh dục sau 2 - 3 năm tuổi. Con đực thường nhỏ hơn con cái. Kích thước các loài rùa rất khác  nhau, lớn nhất trong các loài rùa hiện đại là rùa da (hay bà tam) dài đến 2 m. Các loài rùa cổ đại có con dài đến 3 m. Nói chung, rùa lớn không hạn chế nhưng càng lớn tốc độ tăng trưởng càng chậm. Sống từ vài chục đến 100 năm. Nhiều loài rùa là đối tượng khai thác để lấy thịt, trứng, mỡ, phiến sừng.

Bò sát

Lớp bò sát


Động vật bò sát (danh pháp khoa học:Reptilia) là các động vật bốn chân có màng ối (nghĩa là các phôi thai được bao bọc trong màng ối). Ngày nay, các đại diện còn sống sót của lớp bò sát là:
+ Crocodilia: gồm các loài cá sấu thực sự, cá sấu caiman và cá sấu Mỹ, có 23 loài.
+ Sphennodontia: (các loài tuatara ở New Zealand): 2 loài.
+ Squamata: gồm các loài thằn lằn, rắn và amphisbaenia (bò sát giống bọ), có hơn 7.900 loài.
+ Testudines: gồm các loài rùa, baba , vích, đồi mồi.... Có khoảng 300 loài.
Động vật bò sát được tìm thấy gần như ở mọi nơi trên thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực, mặc dù khu vực phân bổ chính của chúng là các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mặc dù tất cả hoạt động trao đổi chất trong các tế bào sản sinh ra một nguồn năng lượng nhất định, nhưng phần lớn các loài bò sát ngày nay không sản sinh ra đủ năng lượng để duy trì một thân nhiệt ổn định và vì thế chúng còn được gọi là "động vật máu lạnh "(ectothermic), ngoại lệ duy nhất là rùa da(Dermochelys coriacea). Thay vì thế, chúng dựa trên việc thu và mất nhiệt từ mọi trường để điều chỉnh nhiệt độ bên trong của chúng, chẳng hạn bằng cách di chuyển ra chỗ có ánh nắng hay chỗ có bóng râm, hoặc bằng cách tuần hoàn máu có ưu đãi — chuyển máu nóng vào phần trung tâm của cơ thể, trong khi đẩy máu lạnh ra các khu vực ngoại biên. Trong môi trường sinh sống tự nhiên của chúng, phần lớn các loài là rất lão luyện trong công việc này, và chúng có thể thường xuyên duy trì nhiệt độ tại các cơ quan trung tâm trong một phạm vi dao động nhỏ, khi so sánh với các loài động vật có vú và chim, hai nhóm còn sống sót của "động vật máu nóng". Trong khi sự thiếu hụt cơ chế điều chỉnh thân nhiệt bên trong đã làm chúng phải chịu một cái giá đáng kể cho việc này thông qua các hành vi, thì ở mặt khác nó cũng đem lại một số lợi ích đáng kể như cho phép động vật bò sát có thể tồn tại ở những khu vực ít thức ăn hơn so với các loài chim và động vật có vú có kích thước tương đương, là những động vật phải dành hầu hết nguồn năng lượng thu nạp được cho việc giữ ấm cơ thể. Trong khi về cơ bản thì động vật máu nóng di chuyển nhanh hơn so với động vật máu lạnh thì những loài thằn lằn, cá sấu hay rắn khi tấn công con mồi lại là những động vật di chuyển cực nhanh.

Ngoại trừ một số ít thành viên trong bộ Rùa (Testudines), thì tất cả các loài bò sát đều có vảy che phủ.

Phần lớn các loài bò sát là động vật đẻ trứng. Tuy nhiên, nhiều loài trong nhóm Squamata lại có khả năng sinh ra con non. Điều này có thể là thông qua cơ chế đẻ trứng thai (nghĩa là con non phát triển trong vỏ trứng bên trong cơ thể mẹ trước khi sinh ra), hoặc đẻ con (con non được sinh ra không cần trứng có vỏ chứa canxi). Nhiều loài đẻ con nuôi dưỡng bào thai của chúng thông qua các dạng nhau thai khác nhau, tương tự như ở động vật có vú (Pianka & Vitt, 2003, các trang 116-118). Chúng thường cũng có sự chăm sóc ban đầu đáng kể cho các con non mới sinh.

động vật có xương sống

ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG


Động vật có xương sống (danh pháp khoa học: Vertebrata) là một phân ngành của động vật có dây sống, đặc biệt là những loài với xương sống hoặc cột sống. Khoảng 57.739 loài động vật có xương sống đã được miêu tả. Động vật có xương sống đã bắt đầu tiến hóa vào khoảng 530 triệu năm trước trong thời kỳ của sự bùng nổ kỷ Cambri, một giai đoạn trong kỷ Cambri (động vật có xương sống đầu tiên được biết đến là Myllokunmingia). Các xương của cột sống được gọi là xương sống. Vertebrata là phân ngành lớn nhất của động vật có dây sống và bao gồm phần lớn các loài động vật mà nói chung là rất quen thuộc đối với con người (ngoài côn trùng). Cá (bao gồm cả cá mút đá, nhưng thông thường không bao gồm cá mút đá myxin, mặc dù điều này hiện nay đang gây tranh cãi), động vật lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú (bao gồm cả người) đều là động vật có xương sống. Các đặc trưng bổ sung của phân ngành này là hệ cơ, phần lớn bao gồm các khối thịt tạo thành cặp, cũng như hệ thần kinh trung ương một phần nằm bên trong cột sống. Các đặc trưng xác định khác một động vật thuộc loại có xương sống là xương sống hay tủy sống và bộ khung xương bên trong.

Bộ khung xương bên trong để xác định động vật có xương sống bao gồm các chất sụn hay xương, hoặc đôi khi là cả hai. Bộ khung xương ngoài trong dạng lớp áo giáp xương đã là chất xương đầu tiên mà động vật có xương sống đã tiến hóa. Có khả năng chức năng cơ bản của nó là kho dự trữ phốtphat, được tiết ra dưới dạng phốt phat canxi và lưu trữ xung quanh cơ thể, đồng thời cũng góp phần bảo vệ cơ thể luôn. Bộ khung xương tạo ra sự hỗ trợ cho các cơ quan khác trong quá trình tăng trưởng. Vì lý do này mà động vật có xương sống có thể đạt được kích thước lớn hơn động vật không xương sống, và trên thực tế về trung bình thì chúng cũng lớn hơn. Bộ xương của phần lớn động vật có xương sống, ngoại trừ phần lớn các dạng nguyên thủy, bao gồm một hộp sọ, cột sống và hai cặp chi. Ở một số dạng động vật có xương sống thì một hoặc cả hai cặp chi này có thể không có, chẳng hạn ở rắn hay cá voi. Đối với chúng, các cặp chi này đã biến mất trong quá trình tiến hóa.

Hộp sọ được coi là tạo thuận lợi cho sự phát triển của khả năng nhận thức do nó bảo vệ cho các cơ quan quan trọng như não bộ, mắt và tai. Sự bảo vệ này cũng được cho là có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của tính phản xạ cao đối với môi trường thường tìm thấy ở động vật có xương sống.

Cả cột sống và các chi về tổng thể đều hỗ trợ cho cơ thể của động vật có xương sống. Sự hỗ trợ này tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển động. Chuyển động của chúng thường là do các cơ gắn liền với xương hay sụn. Hình dạng cơ thể của động vật có xương sống được tạo ra bởi các cơ. Lớp da che phủ phần nội tạng của cơ thể động vật có xương sống. Da đôi khi còn có tác dụng như là cấu trúc để duy trì các lớp bảo vệ, chẳng hạn vảy sừng hay lông mao. Lông vũ cũng được gắn liền với da.

Phần thân của động vật có xương sống là một khoang rỗng chứa các nội tạng. Tim và các cơ quan hô hấp được bảo vệ bên trong thân. Tim thường nằm phía dưới mang hay giữa các lá phổi, ngoài nội tạng, nó còn là nơi giữ con non hoặc trứng trong thời kì sinh sản.


Hệ thần kinh trung ương của động vật có xương sống bao gồm não bộ và tủy sống. Cả hai đều có đặc trưng là rỗng. Ở động vật có xương sống bậc thấp thì não bộ chủ yếu kiểm soát chức năng của các thụ quan. Ở động vật có xương sống bậc cao thì tỷ lệ giữa não bộ và kích thước cơ thể là lớn hơn. Não bộ lớn hơn như vậy làm cho khả năng trao đổi thông tin giữa các bộ phận của não bộ là cao hơn. Các dây thần kinh từ tủy sống, nằm phía dưới não bộ, mở rộng ra đến lớp da, các nội tạng và các cơ. Một số dây thần kinh nối trực tiếp với não bộ, kết nối não với tai và phổi.
(nguồn: SGK)
Phân lớp của động vật có xương sống
Phân loại truyền thống chia động vật có xương sống thành 7 lớp, dựa trên các diễn giải truyền thống của các đặc điểm giải phẫu và sinh lý học tổng thể.
* Phân ngành Vertebrata
+ Lớp  Agnatha  (cá không hàm)
+ Lớp  Chondrichthyes  (cá sụn)
+ Lớp  Osteichthyes  (cá xương)
+ Lớp  Amphibia (động vật lưỡng cư)
+ Lớp  Reptilia  (động vật bò sát)
+ Lớp Aves  (chim)
+ Lớp Mammalia  (thú)



Thực vật

"Chuyện" trong giới thực vật

phạn xạ có điều kiện, tiến hóa để sinh tồn ở thực vật

Nhớ dai như... thực vật

Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Australia cho thấy cây trinh nữ Mimosa pudica có khả năng ghi nhớ sự việc đã xảy ra như động vật.
Những điều kỳ thú trong tự nhiên
Cây trinh nữ mimosa pudica. (Ảnh: sci-news.com)
Trong nghiên cứu, các chuyên gia của Đại học Tây Australia thử nghiệm các hoạt động "huấn luyện" trí nhớ ngắn hạn và dài hạn cho cây trinh nữ (cây xấu hổ) bằng cách tưới nước đều đặn cho chúng trong các điều kiện ánh sáng khác nhau.
Thông thường, lá cây Mimosa sẽ cuộn lại khi bị dính nước. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, các nhà khoa học nhận thấy cây Mimosa có thể hiểu được thí nghiệm không gây ảnh hưởng đến chúng, do đó sau vài lần tác động, chúng không cuộn lá lại ngay lập tức như phản ứng bình thường.
Nature World News cho hay, vài tuần sau thử nghiệm, chúng có thể ghi nhớ phản ứng được huấn luyện trước đó. Cây trinh nữ dường như thích nghi với các tác động bên ngoài nhanh hơn trong điều kiện ánh sáng thấp.
Theo các nhà khoa học, thực vật không có não bộ và các mô thần kinh như động vật nhưng nhờ vào hệ thống canxi trong các tế bào, chúng có những phản ứng ghi nhớ như kết quả thí nghiệm.

 Thực vật “buôn dưa lê” với nhau?

Có khi nào bạn nghe thấy cây cối "nói chuyện" không? Chắc chắn là không, ngay cả khi bạn đi giữa một rừng cây. Tuy nhiên, các nhà thực vật học lại cho rằng cây cối giao tiếp và kêu cứu đồng loại theo cách riêng của chúng mà thường xuyên nhất là trong trường hợp báo động có nguy hiểm. Chẳng hạn, sau khi bị sâu bọ tấn công, cây cà chua ngấm ngầm báo cho họ hàng biết bằng cách giải phóng một số phân tử mùi vào không khí. Bức thông điệp này được các nhà thực vật học xác định là có mùi của thảm cỏ mới bị xén. Ngay sau khi nhận được cảnh báo trên, các cây hàng xóm chuẩn bị đối phó với sự tấn công của những kẻ phá hoại bằng cách dùi mài vũ khí hóa học của chúng.
Những điều kỳ thú trong tự nhiên
Không chỉ có các loại cây trồng mới biết cảnh báo nguy hiểm cho nhau hay “buôn dưa lê” mà trong vùng thảo nguyên Nam Phi, các cây keo khi bị những chú koudou, loài động vật họ hàng với linh dương, tấn công ngay lập tức cảnh báo cho các cây xung quanh bằng bức thông điệp khí"Tiếng kêu cứu" này giúp cho các cây khác tìm cách bảo vệ lá của chúng bằng cách tập trung toàn bộ chất tanin có vị chua chát lên lá. Đây là cách phòng thủ hữu hiệu để đẩy lùi những kẻ thù ăn lá.

Chiến thuật chống hạn của thực vật

Để chống lại cái nóng, con người biết lắp điều hòa không khí, vậy thực vật sẽ phản ứng như thế nào để tránh được “stress” về nước?
Thông thường thực vật giữ lại trong mình rất ít nước hút được từ đất. Khi nhựa cây đi từ dưới rễ lên ngọn, nó chứa 98% là nước. Lượng nước này khi tới lá cây sẽ được bốc hơi thông qua các lỗ khí cực nhỏ trên bề mặt lá. Tuy nhiên, cây sẽ bị "stress" về nước nếu khối lượng nước bốc hơi nhiều hơn lượng nước mà cây hút được từ đất. Để tránh tình trạng này, trong quá trình phát triển, thực vật tiến hành áp dụng rất nhiều phương pháp nhằm tiết kiệm nước.
“Khi rễ cây cảm nhận được tình trạng khan hiếm nước trong lòng đất, lập tức nó tổng hợp ra một loại hoóc môn gây stress. Đó là axit abscissique. Chất hóa học này theo nhựa cây lên đóng các lỗ khí bốc hơi nước trên bề mặt lá lại. Như vậy hạn chế được lượng nước bốc hơi” - Thierry Simonneau, nhà nghiên cứu thuộc Phòng thí nghiệm sinh lý môi trường thực vật chịu stress thuộc Viện Nông học Montpellier (Pháp) giải thích.
Một số loài thì "chống hạn" bằng cách cuộn lá lại như cây ngô hoặc làm héo lá như cây hướng dương... Tuy nhiên như vậy cây sẽ chậm phát triển.

Cây di chuyển

Bạn cho rằng cây cối thì không thể đi từ nơi này đến nơi khác? Không đúng, có ít nhất 1 loài có khả năng này, đó là cây đước. Tại vùng nhiệt đới, chúng mọc vắt qua những cửa sông không khác gì loài chim cao cẳng. Rễ cây đước rất lạ, mọc ra từ những nhánh cây, có thể dài đến 25m, bắt giữ khí oxy trong không khí trước khi cắm vào bùn để lấy nước.
Những điều kỳ thú trong tự nhiên
Cây càng lớn lên, những nhánh thấp (nhánh nhiều tuổi nhất) càng mọc rễ nhiều. Dưới sức nặng của bản thân và dưới tác động của gió hay thủy triều, các nhánh này sẽ nứt ra khỏi thân. Không được tiếp nhựa sống từ thân cây, cũng không cần vì bản thân, chúng có thể tiếp được sức sống trực tiếp từ lòng đất nhờ vào những chiếc rễriêng. Do bị tổn thương, phần ngoài cùng của nhánh cây cũng sẽ chết, mặc dù trước đó cũng đã kịp tách ra hoàn toàn khỏi thân và tạo thành phần nhánh mới, sống độc lập như cây đước sinh ra từ hạt.
Nhưng khác với cây chính, cây này có thể chuyển động. Trong suốt thời gian tăng trưởng, nó tạo ra những rễ mới hướng về trước, bất chấp phần phía sau chết đi và tự hủy. Trong vòng 1 năm, cây mới này "đi" được 1 khoảng cách khó tin đối với 1 vật thể được cho là bất động: 2 - 5cm. Nó chỉ dừng lại nếu bị 1 cây khác cản đường hay tách quá xa khỏi bờ biển (lúc này đáy biển quá sâu).

Cây sát thủ

Với bộ rễ cắm chắc vào lòng đất, thân to, nhánh hướng thẳng lên trời, loài cây này dường như vô hại. Nhưng không ai nghĩ rằng chúng đang giấu trong mình những "vũ khí độc". Tại vùng nhiệt đới, cây sung được xem là "kẻ chuyên bóp cổ" loài cây khác.
Tất cả bắt đầu bằng việc con chim nào đó nhấm nháp 1 quả sung mọng nước. Hạt sung di chuyển đến hệ tiêu hóa chim. Do quá cứng nên hạt sung được thải ra nguyên vẹn trong phân chim. Bất hạnh cho loài cây nào nhận được món quà độc hại trời cho này. Vì nếu phân chim rơi xuống và kẹt trong chạc cây, hạt sung sẽ nảy mầm. Từ đây, cây chủ bắt đầu lo lắng. Đầu tiên cây sung nhỏ đâm rễ thẳng vào thân cây chủ. Dần dà những rễ khác mọc thêm, bao bọc và quấn chặt lấy cây đã hậu đãi tiếp đón chúng.
Cây càng mọc lên cao thì càng cần nước, nhưng do thân cây đã bị sung trói chặt không thể to ra. Vì thế lượng nước dẫn từ rễ lên lá không đủ. Thiếu nước, cây chết khát và "qua đời".
Nó phân huỷ hoàn toàn trong 1 - 2 năm. Tàn tích duy nhất của cuộc chiến âm thầm này là chiếc bóng của nạn nhân. Nó hiện diện dưới dạng 1 khoảng rỗng giữa những chiếc rễ sung sát thủ. Theo thời gian, rễ sung phát triển tạo thành 1 thân cây thay thế.

Cây vòi nước

Garoe, một loài thuộc họ thắng, có thể không bao giờ phát triển được tại đảo Hierro. Chúng cần rất nhiều nước, trong khi trên hòn đảo vùng Canarie này gần như trời không bao giờ mưa. Mặc dù vậy, thực tế thì garoe vẫn sống khoẻ.
Những điều kỳ thú trong tự nhiên
Không có gì bí mật, vì lá cây của chúng có thể chảy nước thành vòi. Nước này đến từ đâu? Từ lớp sương mù dày đặc thường xuyên ngự trị trên đảo ở độ cao 600-1.500 m. Những giọt nước nhỏ bé tạo thành sương mù thường xuyên bị gió đẩy đi. Gặp phải lá cây, chúng bám vào rồi tập hợp lại thành những dòng nước nhỏ.
Tính ra thì một cây garoe có thể tạo ra gần 80 lít nước/ngày nhờ giương ra một mạng lá khổng lồ hàng trăm mét vuông (diện tích toàn bộ lá cây) để bắt những giọt nước nhỏ trong sương mù. Chiến lược này xem ra rất hiệu quả vì hiện nay có nhiều loài cây trên thế giới áp dụng, như ở Chile, Nam Phi… Từ cây ôliu đến cây bách xù, bất kỳ loại nào cũng có thể tạo ra nước nếu chúng có được tán lá đủ dày và điều kiện khí hậu ở đó giống như trên đảo Hierro. Nguồn nước này hết sức quý giá cho dân chúng địa phương.